Cấu trúc làn da và triết lý dưỡng da toàn phần

Cấu trúc làn da và triết lý dưỡng da chữa lành
Mục lục bài viết

Skincare là mối quan tâm hàng đầu của phái đẹp trong việc chăm sóc cơ thể với mong muốn bảo vệ và lưu giữ sắc đẹp. Các cụm từ như “người đàn bà không tuổi”, “làn da em bé”, “làn da không lỗ chân lông” là tử huyệt trong hành trình chăm sóc làn da của phụ nữ. Nhưng chăm sóc da đúng cách là phải dưỡng da toàn phần, và điều đó đòi hỏi chúng ta cần hiểu sâu sắc, cặn kẽ, chi tiết về làn da. 

Trước tiên là hiểu về cấu trúc da, sau đó là cơ chế hoạt động và chức năng làn da. Để biết được rằng việc chăm sóc mỗi ngày đang tác động vào đâu? Giải quyết vấn đề nào? Có tận gốc không? Các hành động chăm sóc da thông thường có thể tạo ra kết quả gì? hay hậu quả gì? Đúng thì phát huy thế nào, sai thì đâu là thực tế cần tác động vào? 

Cấu trúc làn da và triết lý dưỡng da chữa lành

1. CẤU TRÚC LÀN DA NỀN TẢNG CỦA NGUYÊN LÝ DƯỠNG DA TOÀN PHẦN:

1.1 CẤU TRÚC LÀN DA NGƯỜI:

Cấu trúc da người gồm 3 tầng chính :
1 * Tầng biểu bì: Chính là lớp da ngoài cùng gồm 2 lớp tế bào: lớp sừng & lớp tế bào sống (trong lớp tế bào sống lại được chia làm 4 lớp: lớp đáy, lớp gai, lớp hạt và lớp bóng).

2 * Tầng bì: Bao gồm lớp nhú và lớp lưới trong đó chứa: tuyến nhờn, tuyến mồ hôi, nang lông, hệ thống mạch máu, dây thần kinh và các thành phần phụ khác.

3 ** Mô dưới da: Chủ yếu là mô mỡ

Cấu trúc làn da và triết lý dưỡng da chữa lành

1.1.1 TẦNG BIỂU BÌ (Epidermis)

Biểu bì là lớp ngoài cùng của da, được định nghĩa là biểu mô vảy phân tầng, chủ yếu bao gồm các tế bào sừng trong các giai đoạn biệt hóa tiến triển. Chính vì thế mặc dù biểu bì được cấu tạo bởi các 5 lớp nhưng lớp sừng là dày nhất và có chức năng quan trọng nhất.

a/ Lớp Sừng: Nơi chứa đựng nhiều tế bào sừng nhất. Tế bào sừng tạo ra chất sừng protein và là thành phần xây dựng chính (tế bào) của lớp biểu bì. Vì lớp biểu bì là vô mạch (không chứa mạch máu), nó không phân phối chất dinh dưỡng và thải chất thải. Mà chức năng chính của lớp biểu bì là hoạt động như một rào cản vật lý và sinh học đối với môi trường bên ngoài, ngăn chặn sự xâm nhập của các chất kích thích và chất gây dị ứng. Đồng thời, nó ngăn ngừa sự mất nước và duy trì cân bằng nội môi. 

Tế bào sừng (Keratinocyte) sản xuất keratin (protein dạng sợi dai). Tế bào sừng được hình thành do sự phân chia trong lớp tế bào sống. Khi chúng di chuyển lên và phân hóa để tạo thành một cấu trúc bên trong cứng chắc của keratin, vi sợi và vi ống (keratinisation). Lớp ngoài của biểu bì, lớp sừng, bao gồm các lớp tế bào chết dẹt đã mất nhân. Các tế bào này sau đó bị bong ra khỏi da (bong vảy); quá trình hoàn chỉnh này mất khoảng 28 ngày.

Giữa các tế bào sừng này có một hỗn hợp phức tạp của lipid và protein. Các lipid gian bào này bị phân hủy bởi các enzyme từ tế bào sừng để tạo ra một hỗn hợp lipid gồm ceramide (phospholipid), axit béo và cholesterol. Các phân tử này được sắp xếp theo kiểu tổ chức cao, kết hợp với nhau và các tế bào sừng để tạo thành hàng rào lipid của da chống lại sự mất nước và sự xâm nhập của các chất gây dị ứng và kích ứng.

Lớp sừng có thể được hình dung như một bức tường gạch, với các tế bào sừng tạo thành gạch và các lớp lipid tạo thành vữa. Vì các tế bào sừng có chứa chất giữ nước – một yếu tố giữ ẩm tự nhiên – chúng hút và giữ nước. Hàm lượng nước cao trong các tế bào sừng khiến chúng phồng lên, giữ cho lớp sừng mềm dẻo và đàn hồi, đồng thời ngăn ngừa sự hình thành các vết nứt và rạn. Đây là một lưu ý quan trọng khi dưỡng da. Chúng được hấp thụ qua hàng rào biểu bì vào các mô và cấu trúc bên dưới (hấp thụ qua da) và chuyển đến hệ tuần hoàn.

Lớp sừng quy định số lượng và tốc độ hấp thụ qua da. Một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến điều này là độ ẩm của da và độ ẩm môi trường. Ở những làn da khỏe mạnh với quá trình hydrat hóa bình thường, các tác nhân chỉ có thể thâm nhập vào lớp sừng bằng cách đi qua hàng rào lipid chặt chẽ, tương đối khô giữa các tế bào. Khi tăng độ ẩm cho da hoặc hàng rào bình thường của da bị suy giảm do bệnh da, bong tróc, bào mòn, nứt nẻ hoặc sinh non, sự hấp thụ qua da sẽ tăng lên.

b/ Lớp tế bào sống: là lớp ngay sau lớp biểu bì, mỏng hơn rất nhiều so với lớp biểu bì nhưng lại được phân chia thành 4 lớp khác nằm liền kề và đan xen vào nhau: lớp gai, lớp hạt, lớp trong suốt (lớp bóng), lớp đáy. 

Lớp tế bào sống bao gồm các tế bào:

Tế bào hắc tố: những tế bào này tạo ra sắc tố da sẫm màu. Tế bào hắc tố được tìm thấy ở tầng đáy và nằm rải rác giữa các tế bào sừng dọc theo màng đáy với tỷ lệ một tế bào hắc tố trên 10 tế bào đáy. Chúng tạo ra sắc tố melanin, được sản xuất từ ​​tyrosine, là một axit amin, được đóng gói trong các túi tế bào gọi là melanosomes, và được vận chuyển và phân phối vào tế bào chất của tế bào sừng. Chức năng chính của melanin là hấp thụ bức xạ tia cực tím (UV) để bảo vệ chúng ta khỏi tác hại của nó.

Màu da không được xác định bởi số lượng tế bào hắc tố mà bởi số lượng và kích thước của các melanosome. Da người có màu sắc đa dạng phân bổ từ màu từ đen,nâu sẫm, nâu, vàng, trắng, hồng. Màu da của con người đa dạng hơn bất kì loại đồng vật có vú nào. Sắc tố da ở người trưởng thành chủ yếu để điều chỉnh lượng bức xạ tia cực tím xuyên qua da đồng thời kiểm soát các tác động sinh hóa của nó.

Trong cùng một quần thể, phụ nữ trưởng thành có sắc tố da sáng hơn đáng kể so với nam giới. Phụ nữ cần nhiều canxi hơn trong thời kỳ mang thai và cho con bú, và vitamin D được tổng hợp từ ánh sáng mặt trời giúp hấp thụ canxi. Vì lý do này, người ta cho rằng phụ nữ có thể đã tiến hóa để có làn da sáng hơn nhằm giúp cơ thể chúng hấp thụ nhiều vitamin D hơn.

Người sinh sống ở các khu vực ở gần xích đạo , bức xạ tia cực tím cao thì da sẫm màu hơn. Các khu vực xa vùng nhiệt đới da nhạt màu hơn, người ở khu vực có bức xạ tia cực tím thấp là khu vực ôn đới thì da nhạt màu hơn.

Điều này cũng có nghĩa rằng, màu sắc của làn da là màu tự nhiên, màu da sẫm màu có khả năng chống chọi với cái nắng, tia bức xạ cực tím chống ung thư da tốt hơn da màu sáng.

Tế bào Merkel: được liên kết với các đầu dây thần kinh cảm giác. Những tế bào này chỉ hiện diện với một số lượng rất nhỏ trong tầng đáy. Chúng liên kết chặt chẽ với các sợi tận cùng của dây thần kinh da và có vai trò trong cảm giác, đặc biệt là ở các vùng trên cơ thể như lòng bàn tay, lòng bàn chân và cơ quan sinh dục.

Tế bào Langerhans: tế bào đuôi gai giống đại thực bào. Đây là những tế bào đại diện cho kháng nguyên (vi sinh vật và protein lạ) được tìm thấy trong lớp gai. Chúng là một phần của hệ thống miễn dịch của cơ thể chúng nhận biết các mối đe dọa và kích hoạt phản ứng miễn dịch.

Sự tồn tại của lớp sừng là sự hiển nhiên do quá trình đổi mới liên tục đến từ lớp cơ bản bên dưới nơi diễn ra quá trình phân chia tế bào liên tục (các tế bào sinh ra rồi chết đi) nhằm đảm nhiệm các chứng năng sống cơ bản bao gồm: cảm giác, miễn dịch. Do đó quá trình sừng hóa của lớp biểu bì là một quá trình liên tục. 

Nhưng đồng thời lớp sừng tồn tại như 1 hàng rào bảo vệ cơ thể, với các cơ chế hấp thụ đặc biệt nhằm phòng chống các yếu tố xâm hại bất lợi cho cơ thể. Quá trình tạo sừng này rất nhạy cảm với bức xạ từ mặt trời, do đó các sắc tố trong lớp mầm tạo ra một lớp bảo vệ da sẫm màu hơn khi tiếp xúc với ánh nắng mạnh.

Lớp sừng không chứa các mạch máu vì vậy bị gọi là lớp tế bào chết. Nhưng chính lớp tế bào chết này lại là thần hộ mệnh của làn da, nơi ngăn cản các yếu tố bất lợi có thể xâm hại cơ thể. LỚP SỪNG rất dày và thường rụng bớt khi tắm rửa 1 cách tự nhiên. Như vậy, skincare chính là chăm sóc lớp sừng này. Vẻ đẹp của làn da là vẻ đẹp của lớp sừng, hay còn gọi là vẻ đẹp của lớp tế bào chết.

Hơn thế, lớp tế bào chết là nơi sinh sống của hệ sinh vật hơn 6.000 loài, trong 1 inch(6.5cm2) có khoản 50 triệu con, ở da nhờn thì 78 triệu con. Chúng bao gồm: virus, vi khuẩn, nấm và các con động vật chân đốt hay còn lại là các con ve. Hệ sinh vật này nếu tụ lại chỉ bằng hạt đỗ nhưng vô cùng quan trọng vì sự cộng sinh của chúng tạo ra bề mặt da cân bằng và đại diện cho tổng thể đề kháng da. Bình thường chúng sẽ sống hòa bình với nhau và 50 triệu sinh vật này sẽ bảo vệ nơi ở, nguồn thức ăn của chúng đến cùng, do đó góp phần bảo vệ làn da khi có tác nhân gây bệnh tấn công.

Đây là lý do những sản phẩm hóa mỹ phẩm công nghiệp không tự nhiên (chỉ cần 1 thành phần hóa học) sẽ có khả năng sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến nơi trú ngụ của hệ vi sinh vật từ đó rất dễ làm mất cân bằng chủng loại hình thành nhiều bệnh lý về da. Đồng thời, hiện nay có rất nhiều phong cách dưỡng da lại bắt đầu bằng việc “tẩy tế bào chết thường xuyên và làm sạch sâu liên tục”? Chính hành động này đã gây ra các tổn thương vì vô tình làm vỡ “phòng tuyến” của da khi làm mỏng lớp sừng, cũng như làm mất cân bằng cả hệ vi sinh vật trên đó.

Cấu trúc làn da và triết lý dưỡng da chữa lành

1.1.2 TẦNG BÌ (Dermis):

Tầng bì, lớp tiếp theo của da, là một lớp mô sợi dày và đàn hồi (được cấu tạo chủ yếu từ collagen, với một thành phần nhỏ nhưng quan trọng là elastin) mang lại cho da sự dẻo dai và khỏe mạnh. Lớp tầng bì chứa các đầu dây thần kinh, tuyến mồ hôi và tuyến dầu (tuyến bã nhờn), nang lông và mạch máu.

– Các đầu dây thần kinh cảm nhận cảm giác đau, xúc giác, áp lực và nhiệt độ. 

– Các tuyến mồ hôi tiết ra mồ hôi để phản ứng với nhiệt và căng thẳng. Các tuyến mồ hôi chuyên biệt ở nách và vùng sinh dục (tuyến mồ hôi apocrine) tiết ra mồ hôi dầu, đặc, tạo ra mùi cơ thể đặc trưng khi mồ hôi được tiêu hóa bởi vi khuẩn da ở những vùng đó.

– Các tuyến bã nhờn tiết ra chất nhờn vào nang lông. Bã nhờn là một loại dầu giữ cho da ẩm và mềm mại và hoạt động như một hàng rào chống lại các chất lạ.

– Các nang lông tạo ra nhiều loại lông khác nhau trên khắp cơ thể. Ngoài chức năng thẩm mỹ thì nang lông còn điều chỉnh nhiệt độ cơ thể, bảo vệ khỏi tổn thương và tăng cường cảm giác. Một phần của nang chứa các tế bào gốc có khả năng mọc lại các lớp biểu bì bị tổn thương.

– Các mạch máu của lớp tầng bì cung cấp chất dinh dưỡng cho da và giúp điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Nhiệt làm cho các mạch máu nở ra (giãn ra), cho phép một lượng lớn máu lưu thông gần bề mặt da, nơi có thể giải phóng nhiệt. Lạnh làm cho các mạch máu thu hẹp (co lại), giữ nhiệt cho cơ thể.

Ở các bộ phận khác nhau của cơ thể, số lượng các đầu dây thần kinh, tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn, nang lông và mạch máu khác nhau. Ví dụ, đỉnh đầu có nhiều nang lông, trong khi lòng bàn chân không có. Và có thể bạn chưa biết thì mực xăm được giữ ở tầng bì. Các vết rạn da, thường do mang thai và béo phì, cũng nằm ở tầng bì.

1.1.3 MÔ DƯỚI DA:

Bên dưới lớp hạ bì là một lớp bao gồm các mô mỡ và elastin. Chất béo giúp cách nhiệt cho cơ thể khỏi sự nóng hoặc lạnh từ môi trường. Đồng thời tạo lớp đệm bảo vệ và đóng vai trò như một khu vực dự trữ năng lượng. Chất béo được chứa trong các tế bào sống, được gọi là tế bào mỡ, được tổ chức với nhau bằng mô sợi. Lớp mỡ có độ dày khác nhau, từ một phần inch trên mí mắt đến vài inch trên bụng và mông ở một số người.

1.2 CHỨC NĂNG CỦA LÀN DA:

– Bảo vệ các mô và cơ quan sống bên trong cơ thể

– Bảo vệ chống lại sự xâm nhập của các sinh vật gây bệnh

– Bảo vệ cơ thể khỏi mất nước, chống thấm nước

– Bảo vệ cơ thể trước sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ, duy trì cân bằng nội môi

– Giúp bài tiết các chất cặn bã qua đường mồ hôi

– Hoạt động như một cơ quan thụ cảm đối với xúc giác, áp lực, đau, nóng và lạnh

– Bảo vệ cơ thể khỏi bị cháy nắng (bảo vệ khỏi tia UV) bằng cách tiết ra sắc tố melanin

– Tạo ra vitamin D thông qua tiếp xúc với tia cực tím

– Tích trữ nước, chất béo, glucose, vitamin D

– Hình thành các tế bào mới từ lớp mầm để làm lành các vết thương hở.

1.3 KẾT LUẬN VỀ NỀN TẢNG CỦA VIỆC DƯỠNG DA TOÀN PHẦN:

Da là 1 mạng cấu trúc các tế bào hoàn chỉnh nhằm bảo vệ cơ toàn diện. Trong đó:
– Lớp sừng (lớp dày nhất của lớp biểu bì) chịu trách nhiệm bảo vệ chính 

– Lớp tầng bì chịu trách nhiệm làm chức năng xúc giác chính, đồng thời là nơi duy trì độ tươi trẻ của da thông qua bộ sợi collagen và cơ chế tiết dầu của tuyến bã nhờn

– Mô dưới da chịu trách nhiệm tích trữ dinh dưỡng và cách nhiệt cho cơ thể.

Như vậy mọi nỗ lực dưỡng da trước hết là để nuôi dưỡng hệ vi sinh vật trên lớp sừng và làm đẹp các tế bào sừng. Từ đó hỗ trợ cân bằng khả năng tiết dầu của lớp tầng bì, thông qua sự cân bằng này duy trì độ đàn hồi của bộ sợi collagen làm chậm tiến trình lão hóa da. 

2. TRIẾT LÝ DƯỠNG DA TOÀN PHẦN:

Mọi hành động làm mất lớp sừng, làm tổn hại hệ vi sinh vật trên da như: tẩy tế bào chết thường xuyên, rửa sạch sâu, sử dụng mỹ phẩm có thành phần hóa học… sẽ làm mất lớp sừng, mất hệ vi sinh vật, hoặc 1 số trường hợp là đầu độc dẫn đến triệt tiêu hoặc biến hóa hệ vi sinh vật thành 1 loại khuẩn có hại.

Cấu trúc làn da và triết lý dưỡng da chữa lành

Khi da gặp các vấn đề khô, mụn, nhờn, nhạy cảm, lão hóa … đều là biểu hiện của việc mất lớp sừng, mất cân bằng hệ vi sinh trên da, dẫn đến mất khả năng điều tiết dầu, tổn hại khả năng đàn hồi của da. Vậy dưỡng da chính là quá trình khôi phục hệ vi sinh vật, khôi phục lớp sừng, khôi phục khả năng tiết dầu cân bằng và độ đàn hồi tự nhiên cho da.

Hay nói cách khác việc quan tâm đến môi trường sống của hệ vi sinh vật, tạo điều kiện sinh trưởng ôn hoà bằng cách nuôi dưỡng tế bào sừng cùng với lượng dầu tự thân chính là việc dưỡng da toàn phần. Thay vì chạy theo các chỉ tiêu sạch sâu, trắng bật tone trái tự nhiên… gây ra sự sói mòn, khiến làn da mỏng dần đi và luôn ở trạng thái nhạy cảm, hãy nhìn nhận đúng đắn phương pháp chăm sóc da của bạn!?

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x