CHO TRẺ từ ĂN DẶM đến ĂN CHÍNH
Ăn dặm là thời điểm trẻ làm quen thực phẩm ngoài sữa mẹ/sữa.công.thức. Vậy khoảng thời gian ăn dặm là bao lâu? Bước chuyển tiếp sang ăn chính ra sao để phù hợp với sinh lý trẻ nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cũng như xây dựng hệ miễn dịch?
Cùng Mượt xác định các mốc thời gian quan trọng của ĂN DẶM & ĂN CHÍNH với hình thức ăn uống hợp lý cho bé các mẹ nhé!
I/ Với nguyên tắc #ăn_dặm_bền_vững, trẻ 12m trở lên mới ăn là chính, trước đó trẻ ăn để học. Vì thế THỰC ĐƠN sẽ là:
– Trước 11m, trẻ sẽ được ăn uống theo ý thích bằng thực phẩm có nguồn gốc thực vật.
– 11-12m bố mẹ có thể can thiệp bằng việc đút thêm thức ăn (vẫn là thức ăn có nguồn gốc thực vật) để trẻ ăn nhiều hơn, tiền đề để sau 12m sẽ ăn chính.
– Từ 12m trở lên ngoài thực vật bố mẹ bắt đầu thêm đạm động vật vào khẩu phần ăn (từ bậc thấp đến bậc cao: tôm, ốc, ếch,… đến gà, lợn, bò) và nương theo sở thích của trẻ, không ép buộc nếu trẻ từ chối.
II/ CÁC LOẠI THỰC VẬT TỐT CHO ĂN DẶM, và trẻ mới bắt đầu ĂN CHÍNH:
– Củ giàu tinh bột: khoai lang, sắn, khoai từ, khoai sọ, khoai mỡ… cung cấp đường lành mạnh.
– Rau: mồng tơi, đậu bắp, rau đay, rau sam, rau lang… vừa nhớt, vừa xanh đậm dễ ăn, nhuận tràng, xây dựng hệ vi sinh vật tốt, lại giàu sắt.
– Quả: chuối, đu đủ, dưa hấu, xoài, na, mãng cầu, thanh long, nho, vú sữa, cam, quýt, bưởi, khế, dâu tằm, dừa non, nước mía…
– Dầu thực vật ép lạnh: dầu mè, dầu dừa, dầu sachi, dầu điều ưu tiên dùng sản phẩm bản địa bảo toàn dinh dưỡng toàn phần, tác động hấp thu trọn vẹn.
– Các chế phẩm khác: đường mía thô giúp cung cấp năng lượng tích cực và khoáng chất nguyên vẹn từ mía tươi, các loại bún nui lứt từ gạo nguyên cám, bánh từ bột gạo nguyên chất…
III/ CÁC LƯU Ý QUAN TRỌNG TRONG GIAI ĐOẠN ĂN DẶM và bắt đầu ĂN CHÍNH:
1/ Giai đoạn “ăn là học”:
– Thực hiện ăn 3 bữa theo lịch sinh hoạt của bố mẹ, các cữ bú cách bữa ăn trước 15-20p.
– Vì ăn là để học nên cữ ăn không thay cữ bú. Có nghĩa là sau ăn bé hoàn toàn có thể bú để no bụng.
– Mặc dù ăn là chơi, nhưng bé phải được ngồi vào bàn ăn nghiêm túc cùng cả nhà, thực hiện “văn hoá gia đình” khi tham gia sinh hoạt chung. Đúng giờ vào bữa là lên ghế, hết bữa là dọn mâm.
– Việc ngồi chung bàn ăn sẽ giúp trẻ ý thức được giờ giấc ăn uống, đồng thời nhanh chóng học được cách sử dụng dụng cụ ăn uống thông qua quan sát. Trẻ cũng sẽ học được cách giao tiếp và văn hoá ăn uống của gia đình (ví dụ như: ăn gọn gàng, từ tốn, ăn miếng vừa miệng, cách húp canh, ăn mì,…)
– Cho trẻ sử dụng bát đũa, thìa, dĩa, đặc biệt là cốc uống nước bình thường (có thể dùng size nhỏ hơn) nhưng không dùng các loại dụng cụ có thiết kế bất thường (ví dụ như cốc có ống hút, đũa có phần móc vào ngón tay… những dụng cụ này làm mất khả năng sử dụng dụng cụ bình thường của trẻ)
2/ Giai đoạn ăn tăng thực phẩm và bắt đầu ăn là chính:
a/ Thời điểm và chất lượng của các cữ bú:
– Có thể cho trẻ bú mẹ 3-5p trước ăn vì các lý do như bé cần trấn an, bé quen cữ bú… nhưng không bú nhiều hơn và tuyệt đối không bú trong bữa ăn. Nói chuyện với trẻ 1 cách nghiêm túc về việc ăn uống đúng bữa, khơi gợi hứng thú ăn uống của trẻ bằng các món trẻ yêu thích.
– Trẻ sẽ có 3 cữ bú chính là buổi sáng ngủ dậy, buổi trưa ngủ dậy và trước khi đi ngủ. Các cữ bú này đều cách xa bữa chính và trở thành bữa sáng, bữa xế hữu ích cung cấp năng lượng cần thiết cho con.
b/ 1 số kiểu bú mẹ ảnh hưởng đến bữa ăn:
– Phân biệt bú vặt – bú gộp – bú trấn an:
+Bú gộp là liên tục các cữ ngắn trong khoảng 1-1,5h sau mới kết thúc bữa ăn, sau khi kết thúc bé sẽ cách cữ bú cuối cùng 2,5-3h mới bú trở lại, việc này thường xuất hiện ở trẻ dưới 3 tháng và mẹ có bộ ngực bị can thiệp phẫu thuật (bị áp xe, ung thư…bị cắt bỏ) khiến xoang sữa ít, hoặc bé đang trong giai đoạn đau ốm, bé dính thắng lưỡi, bé mới đi tiêm phòng…
+Bú vặt là các đợt bú cách nhau 1h – 1,5h đều nhau, bé bú nhả nhớt, bú không kiệt sữa, đòi đổi vú liên tục.
+Bú trấn an là trường hợp trẻ có những biến động cảm xúc như bị buồn, bị đau, bị sợ, bị hoảng hốt,… nhất là khi đến chỗ lạ, gặp người lạ. Trong các trường hợp này trẻ sẽ cần bú để được yên tâm, và bình tĩnh trở lại. Những lần bú này thường ngắn, nhanh, và mẹ cần nhận diện để hỗ trợ tâm sự, vỗ về bằng các hoạt động trấn an khác kèm theo, giúp trẻ nhanh chóng lấy lại tinh thần. Vừa khiến trẻ vững vàng tự tin, vừa là sự kết nối sâu sắc mẹ con, cũng là sự thể hiện thấu hiểu, điểm tựa của con từ mẹ. Không phụ thuộc hoàn toàn vào bú, và mặc kệ con tự diễn biến tâm lý.
– Bú vặt khiến trẻ không hứng thú với bữa ăn vì không có cảm giác đói.
– Bú vặt sẽ dẫn đến ăn vặt và đặc biệt là liên tục đổi vú sẽ khiến trẻ không hấp thu được dinh dưỡng trọn vẹn, thiếu béo do không bú đến sữa sau dẫn đến chậm tăng cân và làm ảnh hưởng đến sức khoẻ trẻ
– Đặc biệt việc bú ngay trong bữa ăn sẽ khiến trẻ không có kỷ luật bàn ăn.
**LƯU Ý: Bú vặt – bú gộp – bú trấn an có ranh giới phân biệt rất mong manh và thường bị nhầm lẫn gây ra các ứng xử hoang mang. Đặc biệt với các em bé bú gộp ít vận động, hoặc đổi vú liên tục sẽ nhanh đói nên thời gian giữa các cữ không rõ ràng, khi lớn lên chuyển sang bú vặt thành thói quen lại dễ giận dỗi, khóc lóc buồn bã khi không được như ý. Việc này khiến mẹ nhận định thành bú trấn an. Đây là vòng luẩn quẩn dễ gặp nhất ở các bà mẹ dễ tính, cuối cùng con nhẹ cân sẽ cảm thấy nghi ngờ việc nuôi con sữa mẹ và cho rằng con ăn dặm thất bại.
c/ Hiểu rõ về dinh dưỡng trẻ nhỏ:
Từ phân tích dinh dưỡng sữa mẹ cho thấy, sữa mẹ chứa 88% nước, 7% carbohydrate (thành phần chính là lactose), 3,4% lipid, 1% protein. Trong đó:
– Đường (lactose) và béo (lipid) chịu trách nhiệm cung cấp 100% năng lượng cho các hoạt sống của trẻ. Đồng thời tham gia xây dựng phần lớn cấu trúc cơ thể trẻ đặc biệt là não bộ. Đạm chỉ chiếm 1% và có tác dụng lớn lao nhất trong việc cung cấp nguyên liệu cho hệ miễn dịch thụ động đối với trẻ sơ sinh vừa mới chào đời.
– Khi trẻ lớn lên, tỷ trọng các nhóm chất này có sự thay đổi như sau:
+ tỷ trọng đạm trong sữa mẹ giảm sau mỗi 3 tháng tiếp theo (Hàm lượng protein trong HBM khi sinh là khoảng 14–16 g/L, nhưng giảm xuống 8–10 g/L sau 3–4 tháng sinh và tiếp tục giảm xuống 7–8 g/L sau 6 tháng), nhưng lại tăng lên sau 1 tuổi
+ tỷ trọng đường không đổi sau mỗi 3 tháng tiếp theo, nhưng sau 1 tuổi lại giảm đi.
+ tỷ trọng béo tăng sau mỗi 3 tháng tiếp theo (Sữa non chứa 15–20 g/L chất béo, nhưng lượng này tăng dần và sữa trưởng thành chứa gần 40 g/L) và tiếp tục tăng sau 1 tuổi
Việc này trùng khớp với quá trình xây dựng hệ miễn dịch thích ứng của trẻ. Protein trong sữa mẹ giảm để cơ thể dễ dàng thiết lập hệ vi sinh vật từ mẹ, từ môi trường nhằm thiết lập hệ miễn dịch thích ứng tự thân không bị hệ miễn dịch thụ động cản trở. Sau 1 tuổi trẻ bắt đầu có mối quan hệ xã hội (đi học, ra ngoài nhiều hơn) nên protein lại tăng lên để góp phần bảo vệ trẻ.
Đường và béo chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc cung cấp năng lượng cho phát triển sơ sinh đặc biệt là não bộ. Tốc độ phát triển nơron thần kinh cực nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu nhận biết, làm quen môi trường mới, đặc biệt là việc tiếp nhận ngôn ngữ cấp ở giai đoạn sơ sinh.
Mức lactose không đổi rất quan trọng để duy trì áp suất thẩm thấu không đổi trong sữa mẹ, giúp trẻ hấp thụ được dinh dưỡng từ sữa mẹ, đặc biệt là hấp thụ khoáng chất và canxi tối ưu. Sau 1 tuổi trẻ bắt đầu ăn tốt, hệ vi sinh vật dần hoàn thiện nên đường giảm nhẹ do yêu cầu thẩm thấu dinh dưỡng không còn quan trọng nữa.
Duy chỉ có chất béo là nhóm chất duy nhất liên tục tăng xuyên suốt quá trình lớn lên của trẻ. Bởi đây là nhóm chất cấu tạo nên hệ thần kinh trung ương vẫn tiếp tục phát triển không ngừng mỗi ngày. Chất béo còn cấu tạo nên các mô của cơ thể trẻ đảm bảo năng lượng cho vận động và giúp cho hệ tiêu hoá luân chuyển thức ăn đạt hiệu suất cao.
Với đặc điểm sinh lý này cho thấy tỷ lệ dinh dưỡng của trẻ sơ sinh là 7 đường:4 béo:1 đạm, ở trẻ ăn dặm là 7:8:0,5. Khi ăn dặm bền vững trẻ ăn để học do đó thực phẩm nạp vào không đáng kể, hoặc chỉ ở dạng chất xơ đơn thuần, không có tác động vào tỷ lệ dinh dưỡng 7:8:0,5 trên.
Việc xuất hiện chất xơ xuyên suốt giai đoạn ăn dặm kéo dài 6 tháng giúp trẻ xây dựng vệ vi sinh vật đường ruột, là tiền đề của hệ miễn dịch thích ứng. Sau 1 tuổi, trẻ ăn là chính và thực phẩm chính của trẻ phần lớn là thực vật (cacbonhydrat), dầu thực vật/mỡ và đạm đơn giản. Với thực đơn này, trẻ dễ dàng duy trì tỷ lệ 7:8:0,5 phù hợp với dinh dưỡng trẻ nhỏ, giúp quá trình hoàn thiện hệ miễn dịch được thuận lợi, đạt mục tiêu hoàn thiện khi trẻ 2,5-3t.
Sau 2,5-3t trẻ bước vào giai đoạn #ăn_toàn_diện.
**CHÚ Ý: Do đó, ăn dặm theo tháp dinh dưỡng thông thường, được tính toán calo dinh dưỡng là 1 phương pháp sai lầm phá vỡ sinh lý tự nhiên của trẻ nhỏ. Việc này sẽ gây ra hệ luỵ về 1 hệ vi sinh vật đường ruột lệch lạc, hoặc kém phong phú. Tiền đề của táo bón – thừa cân – thấp còi suy dinh dưỡng.